HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
TRUNG TÂM THỰC NGHIỆM VÀ ĐÀO TẠO NGHỀ
QUY TRÌNH KỸ THUẬT
TRỒNG NHÂN GIỐNG VÀ CHĂM SÓC CÂY CAM VINH (CAM XÃ ĐOÀI)
Nhóm tác giả biên soạn: 1. GVC.TS. Nguyễn Mai Thơm
- ThS. Nguyễn Thu Thủy
- ThS. Nguyễn Ngọc Dũng
- ThS. Vũ Xuân hải
- ThS. Nguyễn Thị Ngàn
*Tên: Cam Vinh
1. Đặc điểm giống
Giống cam Vinh không kén đất, cây sinh trưởng phát triển nhanh, sức kháng bệnh tốt, năng suất cao, có vị ngọt, mùi thơm thanh nhẹ, ít hạt, mọng nước. Hiện nay có 3 giống cam lấy tên là cam Vinh, sau đây là đặc điểm của 3 giống cam mang tên Vinh
- Cam Vinh – Giống cam Xã Đoài
Hiện nay được trồng trên một số vùng tại Nghệ An như huyện Quỳ Hợp( xã Minh Hợp), huyện Nghĩa Đàn( Nghãi Bình, Nghĩa Hiếu, Nghĩa Lâm, Nghĩa Sơn), huyện Nghi Lộc( Xã Nghĩa Diên, Nghi Hoa) tại huyện Tân Kỳ, huyện Hưng Nguyên….. Trong đó huyện Quỳ Hợp được coi là là thủ phủ của cam Vinh, huyện Nghi Lộc là ông tổ của giống cam Xã Đoài thơm, mát, ngọt và tinh dầu rất cao…Giống cam này tuy không trơn bóng và còn có nhiều hạt tuy nhiên hương vị của nó thì khó có cam nào so sánh bằng.
- Cam Sông Con
Đây cũng là một giống Cam Vinh mang tên một còn sông của vùng đất Nghệ Tĩnh, giống cam cho trái rất mỏng vỏ, nhiều nước nhưng ngọt đậm và cũng rất thơm. Người dân nơi đây cho biết cam Sông Con sau 3 – 4 năm là bắt đầu cho thu hoạch, năng suất cao, chống chịu tốt sâu bệnh, rất hợp với nhiều vùng đất trung du miền núi.
Hiện nay giống cam Sông Con cũng được nhân giống trồng nhiều nơi trên cả nước tuy nhiên hương vị và chất lượng cam trồng ở vùng đất xứ nghệ vẫn được khách hàng ưa chuộng hơn.
- Cam Vinh – Cam Valencia
Đây là giống cam ngoại nhập từ Tây Ban Nha sau một thời gian dài thử nghiệm nhân giống cũng trở thành đặc sản của vùng đất xứ nghệ. Nổi tiếng là Cam Hoa Hậu của Việt Nam, cam Valencia có màu sắc hấp dẫn, tuy giống cam chín muộn nhưng nó không có hạt đặc biệt nước rất ngọt chất lượng rất tốt, vừa đáp ứng được thị hiếu của khách hàng vừa được giá trên thị trường. Hiện nay cam Valencia không những được trồng tại miền Tây xứ nghệ mà nó còn được nhân giống t
* Yêu cầu về nhiệt độ
Nhiệt độ bình quân năm thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây cam là 12 – 390C. Nhiệt độ thấp nhất gây chết là – 8 đến – 110C, cam có thể chống chịu được khi nhiệt độ lên đến 480C. Nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trưởng của cam là 23 – 29o C. Những vùng có nhiệt độ bình quân năm trên 20oC và tổng tích ôn từ 2.500 – 3.500oC đều có thể trồng được Cam.
* Yêu cầu về nước và chế độ ẩm
Lượng mưa trung bình năm thích hợp cho trồng bưởi là 1.250 – 1.850 mm. cam yêu cầu lượng mưa phân bố đều trong năm hơn lượng mưa lớn nhưng tập trung vào một số ít tháng. Cam cần nhiều nước ở thời kỳ bật mầm, phân hoá mầm hoa, ra hoa và quả phát triển. Cam không chịu được úng, ẩm độ đất thích hợp là 70 – 80%.
* Yêu cầu về đất đai
Vùng trồng cam phải đất có tầng canh tác dày ít nhất 0,6 – 1m; thành phần cơ giới nhẹ đến trung bình, đất tơi xốp, thông thoáng và thoát nước tốt. Đất phải giầu mùn, hàm lượng các chất dinh dưỡng phải đạt mức trung bình trở lên (hàm lượng mùn từ 2 – 3%; N tổng số: 0,1 – 0,15%; P2O5 dễ tiêu từ 5 – 7mg/100g; K2O dễ tiêu từ 7 – 10mg/100g; Ca, Mg: 3 – 4mg/100g).
pH KCl đất thích hợp nhất cho cây trồng bưởi là từ 5,5 – 6,0 song cũng có thể trồng được bưởi khi pH KCl từ 4,0 – 8,5 nhưng phải có biện pháp cải tạo đất.
* Yêu cầu về ánh sáng
Cường độ ánh sáng thích hợp cho trồng cam là 10.000 – 15.000 Lux (tương ứng với ánh sáng lúc 8 giờ sáng và 16 giờ chiều). Cần bố trí mật độ trồng dày hợp lý có được ánh sáng tán xạ, tránh được giám quả.
* Yêu cầu về các yếu tố khác
Vùng trồng cam thích hợp cần tránh những vùng có độ dốc lớn (trên 150), đất nhiễm phèn, mặn, những vùng có sương muối, gió bão…
- Kỹ thuật nhân Giống
Cây Cam Vinh giống được nhân giống vô tính, với đặc tính của nhân giống vô tính cây con luôn mang tất cả các đặc tính tốt nhất của cây mẹ. Cây Cam Vinh nhân giống vô tính cho cây giống với khả năng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao, chất lượng ổn định, cây nhanh ra trái. Cách nhân giống vô tính cho cây giống khỏe, có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, chịu úng chịu hạn cao. Cây Cam Vinh giống có chiều cao từ 30-50cm.
2.1. Cơ sở khoa học của phương pháp ghép
Một thân cây cắt ngang có 3 phần chính: lớp vỏ ngoài cùng có nhiệm vụ
dẫn nhựa luyện từ lá xuống rễ, phần gỗ phía trong dẫn nhựa nguyên từ rễ lên cành lá. Phần giữa gỗ và vỏ là tượng tầng mô phân sinh, rất mỏng, chứa đầy chất dịch có khả năng phân chia nhanh tạo nên gỗ bên trong và vỏ bên ngoài. Việc kết hợp giữa gốc và cành (mắt) ghép gồm bốn bước như sau:
– Áp sát phần tượng tầng của gốc với cành (mắt) ghép với nhau.
– Lớp tế bào tượng tầng ngoài của gốc và cành (hay mắt) ghép tạo ra những
tế bào nhu mô dính lại với nhau, gọi là mô sẹo.
– Các tế bào nhu mô của mô sẹo phân hóa thành những tế bào tượng tầng
mới, kết hợp với tượng tầng nguyên thủy của gốc và cành (hay mắt) ghép.
– Các tế bào tượng tầng mới tạo ra những mô mạch mới, gỗ bên trong và
libe bên ngoài, hình thành sự kết hợp mạch giữa gốc và cành (hay mắt) ghép làm dinh dưỡng và nước được vận chuyển qua lại với nhau.
*Ưu điểm của phương pháp này là:
– Cây con giữ được đặc tính của cây mẹ, mau cho hoa trái, tuổi thọ cao. – Tạo được nhiều cây giống.
– Lợi dụng đặc tính tốt của gốc ghép, chịu đựng được điều kiện môi trường bất lợi như: hạn, úng, sâu bệnh…
– Áp dụng được với những cây không hột.
– Phục tráng cho những cây già cổi, quí.
– Tạo được những dạng cây khác như thay đổi hình dạng, ghép cho nhiều
loại trái, cây lùn đi…
– Thay đổi được tính trạng đực khi ghép cây cái lên cây đực.
*Nhược điểm của phương pháp ghép: Phải nắm vững đặc tính của gốc ghép và cành ghép. Thao tác ghép không khó nhưng phải có kinh nghiệm. Phải có dụng cụ và có
những trường hợp tiếp hợp khó khăn.
- Thời vụ nhân giống
Thời vụ ghép chính cho Vinh là vào mùa xuân và mùa thu hàng năm. Cam Vinh thông thường người ta hay sử dụng ghép trên cây bưởi chua hay hạt bưởi chua của địa phương đểm đảm bảo khả năng sinh trưởng phát triển tốt và hạn chế sâu bệnh. Nên khi vào thời điểm thu thập hạt bưởi chua vào tháng 8 âm lịch hàng năm, lấy hạt rồi chà sát hết nhớt ở hạt rồi phơi khô bảo quản nếu làm vụ sớm thì chúng ta có thể gieo ngay, nến không chúng ta bảo quản khô như bảo quản hạt đỗ hạt lạc. Khi gieo ta cho ngâm hạt trong nước 48h sau đó vớt ra ủ trong khăn ướt 1- 2 ngay sau đó chúng ta thường xuyên kiểm tra hạt nào nứt là có thể đem gieo trực tiếp vào bầu đã làm sẵn. Đây là phương pháp chuẩn đảm bảo độ đồng đều và tiế kiệm nguồn giống, ngoài ra hiện nay người ta nhân giống đơn giản hơn khi ngân nước xong người ta làm luống đất rồi vãi hạt trên luống đến khi hạt mọc mầm được 1 – 2 lá thật thì người ta nhổ rồi đóng vào bầu đây là cây mạ. Khi cây trồng được 6 – 8 tháng khi cây cao được 50 – 60 cm thì chúng ta bắt đầu ghép
- Chăm sóc cây mẹ để lấy mắt
Nếu được chọn để lấy mắt ghép thì sau khi thu hái quả xong, tiến hành chăm bón cho cây cây hồi phục, ổn định. Chọn lấy những cành bánh tẻ để lấy mắt ghép.
Thông thường những vườn vây mẹ thì hạn chế khai thac quả hàng năm nếu có khai thác quả thì khác thác với lượng vừa phải để cây phát triển thân cành khỏe phục vụ cho công tác lấy mắt. Chú ý trước thời điểm lấy mắt ghép 2 tháng chúng ta không bón đạm để cành khỏe đảm bảo tiêu chuẩn của cành ghép. Thường xuyên chú ý phòng trừ sâu bệnh giữ cho cây mẹ luôn sạch bệnh.
- Kỹ thuật ghép
Để thực hiện tốt công tác nhân giống bằng phương pháp ghép chúng ta cần làm theo các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị gốc ghép
Khi cây cao 50 – 60cm, đường kính gốc 0,5- 0,6cm thì tiến hành ghép. Có thể ghép theo nhiều cách khác nhau như: ghép áp , ghép kiểu chữ T, ghép mắt nhỏ có gỗ, hoặc ghép đoạn cành. Đối với giống Đào Mèo chúng ta nên ghép bằng phương pháp ghép mắt nhỏ có gỗ hoặc ghép đoạn cành.
Bước 2: chuẩn bị dụng cụ ghép
– Dao ghép các loại bao gồm dao ghép đoạn cành, dao ghép mắt nhỏ, kéo cắt cành, dây nilon chuyên dụng, cưa, đá mài dao theo bộ gồm một đá mài giáp một đá mài bóng, ô, ghế ngồi, giá nhựa …
– Nước khữ trùng như javel, khăn vải để bảo quản mắt ghép…
Bước 3: Xử lý dụng cụ
Dao ghép cần phải được mài sắc bén, để thực hiện các bước trong các kiểu ghép
Nếu dao không có kích thước phù hợp và sắc bén sẽ gây cho chúng ta nhiều khó khăn trong việc ghép.
Dao ghép sạch (nếu không sạch thì mắt ghép dễ chết do nhiễm nấm).
Bước 4: Tiến hành ghép
Trước khi ghép chúng ta cần hiểu về phương pháp ghép: phương pháp ghép là phương pháp đem cành hay mầm nhánh (mắt) của cây mẹ có nhiều ưu điểm như: phẩm chất tốt, năng suất cao… gắn sang gốc một loại cây khác để tạo thành một cá thể mới thống nhất.
Kỹ thuật chọn cành ghép, mắt ghép
Cần chú ý chọn xanh tốt không có triệu chứng sâu, bệnh hoặc bị tổn thương Giống như gốc ghép, cành ghép đang lên nhựa (dấu hiệu bắt đầu một đợt sinh trưởng mới). Nếu cành ghép, mắt ghép không lên nhựa thì không bóc được mắt ghép. Chọn cành ghép, mắt phải là cành bánh tẻ.Tuổi từ 6 – 12 tháng. Để lấy mắt ghép được dễ dàng thì sau khi chọn cành xong, tiến hành khoanh vỏ (giống như chiết nhánh nhưng không bó bầu), khoảng 7-10 ngày sau thì cắt cành để lấy mắt, mắt ghép sẽ dễ tróc và phát triển nhanh sau khi tháp. Lấy mắt ghép hơi lồi lên trên nách lá.
* Chú ý: Chọn những cành ghép, mắt ghép trên cây mẹ là những cành bánh tẻ.
Khoẻ mạnh có mầm thức, đường kính nhỏ hơn một ít hoặc bằng đường kính gốc ghép, cành ghép để khi ta ghép vào vừa khít với nhau.
* Tiêu chuẩn cành (hay mắt) ghép. Phải chọn từ cây mẹ có năng suất cao, phẩm chất tốt, lấy cành hay mắt trong giai đoạn cho năng suất ổn định, không lấy từ những cây già cổi, còn non chưa cho quả. Khi vận chuyển xa cần bảo quản cành ghép trong điều kiện mát ẩm
Tiến hành ghép
* Kỹ thuật ghép đoạn cành
– Cắt cành ghép: Bỏ phần ngọn và các mầm yếu, cắt thành đoạn dài 6 – 10 cm và giữ lại 3 mắt, nếu cành khỏe thì giữ lại 2 mắt. Tay trái cầm ngược cành ghép, cắt vát phần gỗ độ dài khoảng 1,5 – 2cm vết cắt phải phẳng mịm không rập nát, sau đó quay đầu ngọn lại rồi cắt bỏ đầu thừa. Trung bình chiều dài mắt ghép khoảng 5 -7 cm trên cành có khoảng 3- 4 mắt thức.
` – Cắt gốc ghép: Dùng dao kéo sắc cắt ngang thân cách mặt đất khoảng 20 -25cm. Sau đó nghiên dao cắt vát nhẹ phần đầu để làm cữ. Dùng dao ghép để vuông góc với mặt phẳng cắt ngang dùng ba ngón tay trái và tay phải chẻ dọc theo thân gốc ghép ngập dao tạo vết chẻ bằng phẳng, nhẵn. vị trí vết chẻ bằng 1/3 bán kính đến 1/3 đường kính.
– Đặt mắt ghép vào gốc ghép sao cho trùng khít 2 lớp thượng tầng. trong trường hợp có hiện tượng mắt ghép to hơn hơn gốc ghép, hoặc gốc ghép to hơn mắt ghép thì chúng ta vẫn phải chú ý đắt ít nhất một bên của mắt ghép và gốc ghép trùng khita với nhau.
– Quấn nilon sử dụng loại nilon chuyên dụng có độ dày 0,005mm để quấn, ta lấy khoảng 50cm dây quấn, lấy 1/3 dây dùng tay phai quấn chặt trước sau đó dùng 2/3 còn lại quấn kín chùm toàn bộ lên mắt ghép. Dùng hai ngón tay chỏ và ngoán tay giữa kẹp dâp rồi buộc lại.
* kỹ thuật ghép mắt nhỏ
Lấy mắt ghép: Lấy cành ghép xác định mắt ghép định lấy sau đó quay đầu cành ghép vào trong dùng dao ghép kéo lưỡi dao từ mắt ghép lên trên khoảng 1 – 1,5cm rồi từ từ cắt vào trong thân cành ghép có dính một phần gỗ.
Mở gốc ghép: dùng dao ghép chọn vị trí bằng phẳng trên thân gốc ghép cũng cắt một vết như lấy mắt ghép có dính một ít gỗ sau đó cắt mắt ghép dời cành ghép rồi đặt mắt ghép vào gốc ghép sao cho trùng khít hai lớp thượng tầng giữa mắt ghép và gốc ghép. Sau đó dùng dây linlon quấn kín mắt ghép chú ý quán theo hình lợp mái nhà để tránh khi tưới hoặc mưa không cho nước ngấm vào.
Bước 5: Chăm sóc vườn ươm sau khi ghép
Tập trung chăm sóc phòng trừ sâu bệnh đặc biệt là kiến sau khi ghép. Sau 2 ngày ghép chúng ta mới được tưới . Thỉnh thoảng tưới nước phân pha loãng, để cây giống phát triển thuận lợi. Thường sau ghép 15 – 20 ngày thì cam sẽ bật mầm lục này đồng thời các mát đào gốc ghép cũng bật theo cho nên chúng ta cần chú ý tỉa bỏ mầm dại không cho chúng phát triển. Nếu chúng ta mà để thì mầm dại sẽ phát triển mạnh và nhanh hơn mầm ghép.
Đối với phương pháp ghép mắt nhỏ có gỗ thì sau ghép 25 ngày thì chúng ta đi cắt toàn bộ ngọn cây vào cắt linon ra khỏi mắt ghép để mắt nhanh mọc mầm. chú ý trong quá trình cắt ngọn chúng ta dùng hai ngón tay trỏ và cái bọp nhẹ phần mắt ghép thấy mắt nào chắc cứng thì tiến hành cắt ngọn, nếu mắt nào thấy mềm thì không cắt vì mắt đó bị chết. Những cây ghép trượt chúng ta có thể ghép bổ xung bằng phương pháp ghép đoạn cành.
- Kỹ thuật trồng và chăm sóc
3.1. Làm đất và đào hố: Làm sạch cỏ dại, đào hố theo kích thước rộng 60 cm, sâu 60 cm.
3.2. Bón lót:
– Phân chuồng hoai mục: 20-30 kg/hố
– Super lân: 0,5-0,7 kg/hố
– Vôi bột: 0,3-0,5 kg/hố *
3.3. Thời vụ, mật độ, cách trồng
Thời vụ:
– Vụ Xuân trồng tháng 2-4.
– Vụ Thu trồng tháng 8-10.
3.4. Mật độ khoảng cách
Tuỳ theo từng vùng đất xấu tốt mà bố trí mật độ khác nhau: Khoảng cách trung bình (5 x 6 m), mật độ 333 cây/ha. Có điều kiện thâm canh cao trồng dày khoảng cách (3 x 3,5 m), mật độ 800 – 1.000 cây/ha.
3.5. Cách trồng
Hố thường phải đào trước khi trồng 15-30 ngày. Trộn đều toàn bộ lượng phân ở trên với lớp đất trên mặt, sau đó cho xuống đáy hố, tiếp theo lấp đất thành ụ cao so với mặt hố 15-20 cm. Vét một hố nhỏ đặt bầu rồi lấp đất vừa kín bầu và nén chặt. Sau đó cắm cọc chéo chữ X vào cây và buộc để tránh làm lay gốc làm chết cây.
3.6. Chăm sóc sau khi trồng
3.6.1. Tưới nước:
Thường xuyên giữ ẩm trong vòng 20 ngày đến 1 tháng để cây hoàn toàn bén rễ và phục hồi. Sau đó tuỳ thời tiết nắng mưa để chống hạn hoặc chống úng cho cây. Trước khi thu hoạch 1 tháng ngừng tưới nước.
Về lượng nước tưới và số lần tưới phải dựa vào khả năng giữ nước của đất, lượng bốc hơi và lượng mưa để quyết định, phương pháp tưới có thể là tưới bề mặt hoặc tưới nhỏ giọt,… mỗi lần bón phân cần phải tưới nước để phân có thể hoà tan tạo điều kiện cho cây hấp thụ tốt hơn.
3.6.2. Bón phân:
- Thời kỳ cây còn nhỏ 1-3 tuổi: Hàng năm cần bón thúc vào thời điểm: Tháng 1, tháng 2, tháng 5 và tháng 11.
- Lượng bón:
– Phân hữu cơ hoai mục: 5-20 kg
– Đạm Urê: 0,1-0,2 kg/cây
– Super lân: 0,2-0,5 kg/cây
– Kali: 0,1-0,2 kg/cây
- Khi bón cần kết hợp xới xáo, làm cỏ.
– Thời kỳ thu hoạch từ năm thứ 4 trở đi: Hàng năm cần bón thúc vào thời điểm:
- Bón cơ bản (tháng 8 – tháng 11): Phân hữu cơ + Super lân + Vôi.
- Bón đón hoa, cành xuân từ 15/1 – 15/3: Đạm Urê + Kali.
- Bón thúc tăng trọng quả vào tháng 5: Đạm Urê + Kali.
- Bón thúc cành thu và tăng trọng quả tháng 7 – tháng 8: Đạm Urê + Kali.
Ngoài ra bón cho cây sau khi thu hoạch làm cây chóng phục hồi, lượng bón thúc như sau:
– Phân hữu cơ hoai mục: 20-30 kg/cây
– Đạm Urê: 0,5-0,8 kg/cây
– Super lân: 0,5-1,0 kg/cây
– Kali: 0,1-0,3 kg/cây
– Vôi bột: 0,5-1 kg/cây
Các năm sau lượng phân tăng theo tuổi cây, năng suất quả và tuỳ thuộc loại đất để tăng hoặc giảm lượng phân bón.
3.6.3. Cách bón:
- Đào rãnh hoặc hốc rộng 20 cm, sâu 15-20 cm xung quanh tán cây, rắc phân lấp đất, tưới đẫm nước.
- Bón tỉa cây: Khi cây có quả, sau mỗi lần thu hoạch cần đốn tỉa bỏ cành nhỏ, cành trong tán, cành sâu bệnh… và tiến hành thường xuyên tạo thuận lợi cho việc hình thành quả.
3.7. Cắt tỉa tạo hình
+ Cắt tỉa cho cây trong thời kỳ chưa mang quả: Việc cắt tỉa được tiến hành ngay từ khi trồng. Để có được dạng hình hợp lý (hình bán cầu), cần thực hiện theo các bước sau:
- Tạo cành cấp 1: Khi cây con đạt chiều cao 45 – 50 cm, cần bấm ngọn để tạo cành cấp 1. Chỉ để lại 3 – 4 cành cấp 1 phân bố tương đối đều về các hướng. Các cành cấp 1 này thường chọn cành khoẻ, ít cong queo, cách nhau 7 – 10 cm trên thân chính và tạo với thân chính một góc xấp xỉ 450 – 600 để khung tán đều và thoáng.
- Tạo cành cấp 2: Khi cành cấp 1 dài 25 – 30 cm, ta bấm ngọn để tạo cành cấp 2. Thông thường trên cành cấp 1 chỉ giữ lại 3 cành cấp 2 phân bố hợp lý về góc độ và hướng.
- Tạo cành cấp 3: Cành cấp 3 là những cành tạo quả và mang quả cho những năm sau. Các cành này phải khống chế để chúng không giao nhau và sắp xếp theo các hướng khác nhau giúp cây quang hợp được tốt.
+ Cắt tỉa cho cây trong thời kỳ mang quả
Cắt tỉa sau thu hoạch: Được tiến hành sau khi thu hoạch quả. Cắt tỉa tất cả các cành sâu bệnh, cành chết, cành vượt, những cành quá dày, cắt tỉa bớt cành cấp 1(nếu số cành cấp 1/cây quá dày) sao cho cây có bộ khung tán cân đối. Đối với cành thu, cắt bỏ những cành yếu, mọc quá dày.
Cắt tỉa vụ xuân: Được tiến hành vào giữa tháng 1 đến giữa tháng 3 hàng năm: Cắt bỏ những cành xuân chất lượng kém, cành sâu bệnh, cành mọc lộn xộn trong tán, những chùm hoa nhỏ, dầy, dị hình.
Cắt tỉa vụ hè: được tiến hành từ tháng 4 đến hết tháng 6: Cắt bỏ những cành hè mọc quá dày hoặc yếu, cành sâu bệnh, tỉa bỏ những quả nhỏ, dị hình
- Một số biện pháp chăm sóc khác
* Biện pháp kích thích ra hoa
Khoanh vỏ: vào cuối tháng 11, đầu tháng 12, khi lá đã thành thục, chọn những cây sinh trưởng khoẻ, lá xanh đen tiến hành khoanh vỏ. Khoanh toàn bộ số cành cấp 1. Phương pháp là dùng dao sắc khoanh bỏ hết lớp vỏ đến phần gỗ với chiều rộng vết khoanh 0,2 – 0,3 cm theo hình xoắn ốc 1,5 – 2 vòng, tuyệt đối không dùng liềm, cưa. Xử lý thuốc trừ nấm bệnh cho vết khoanh.
* Biện pháp tăng khả năng đậu quả
+ Trước khi nở hoa: dùng các loại phân bón lá: Atonic, Mastrer – Grow, kích phát tố thiên nông (theo chỉ dẫn trên bao bì) phun 2 lần, lần 1 khi mới xuất hiện nụ, lần 2 cách lần 1 là 15 ngày.
+ Sau khi đậu quả: khi quả non có đường kính 1 – 2 cm, phun Atonic, Mastrer – Grow, kích phát tố thiên nông 2 – 3 lần với nồng chỉ dẫn, các lần phun cách nhau 10 – 15 ngày.
5. Một số loại sâu bệnh hại chính
* Sâu hại Bưởi
- Sâu vẽ bùa (Phyllocnistis citriella):
– Đặc điểm gây hại:
Phá hoại ở thời kỳ vườn ươm và cây nhỏ 3 – 4 năm đầu mới trồng. Trên cây tập trung phá hoại thời kỳ lộc non, nhất là lộc xuân. Trưởng thành đẻ trứng vào búp lá non, sâu non nở ra ăn lớp biều bì lá, tạo thành đường ngoằn ngèo, có phủ sáp trắng, lá xoăn lại, cuối đường cong vẽ trên mặt lá có sâu non bằng đầu kim. Sâu phá hoại mạnh ở tất cả các tháng trong năm (mạnh nhất từ tháng 2 đến tháng 10).
– Phòng trừ: Phun thuốc diệt sâu 1 – 2 lần cho mỗi đợt lộc non bằng: Decis 2,5EC 0,1 – 0,15%; Trebon 0,1 – 0,15%; Polytrin 50EC 0,1 – 0,2%.
- Sâu đục thân (Chelidonium argentatum), đục cành (Nadezhdiella cantori):
– Đặc điểm gây hại:
Con trưởng thành đẻ trứng vào các kẽ nứt trên thân, cành chính. Sâu non nở ra đục vào phần gỗ tạo ra các lỗ đục, trên vết đục xuất hiện lớp phân mùn cưa đùn ra.
– Phòng trừ:
+ Bắt diệt trưởng thành (Xén tóc)
+ Phát hiện sớm vết đục, dùng dây thép nhỏ luồn vào lỗ đục để bắt sâu non
+ Sau thu hoạch (tháng 11 – 12) quét vôi vào gốc cây để diệt trứng
+ Phun các loại thuốc xông hơi như Ofatox 400 EC 0,1%; Supracide 40ND 0,2% sau sau đó dùng đất dẻo bít miệng lỗ lại để diệt sâu.
- Nhện hại:
– Đặc điểm gây hại:
+ Nhện đỏ (Panonychus citri): Phát sinh quanh năm hại lá là chính, chủ yếu vào vụ đông xuân. Nhện đỏ rất nhỏ, màu đỏ thường tụ tập thành những đám nhỏ ở dưới mặt lá, hút dịch lá làm cho lá bị héo đi. Trên lá nơi nhện tụ tập thường nhìn trên mặt lá thấy những vùng tròn lá bị bạc hơn so với chỗ lá không có nhện và hơi phồng lên nhăn nheo.
+ Nhện trắng (Polyphagotarsonemus latus): Phát sinh chủ yếu ở trong những thời kỳ khô hạn kéo dài và ít ánh sáng (trời âm u hoặc cây bị che bóng bởi các cây khác). Nhện trắng là nguyên nhân chủ yếu gây ra rám quả, các vết màu vàng sáng ở dưới mặt lá.
– Phòng trừ: Để chống nhện (nhện đỏ và nhện trắng) dùng thuốc Comite, Ortus 50EC, Pegasus 250 pha nồng độ 0,1 – 0,2% phun ướt cả mặt dưới lá và phun lúc cây đang ra lộc non để phòng. Nếu đã bị nhện phá hại phải phun kép 2 – 3 lần, mỗi lần cách nhau 5 – 7 ngày bằng những thuốc trên hoặc phố trộn 2 loại với nhau hoặc với dầu khoáng trừ sâu.
- Rệp hại: Chủ yếu hại trên các lá non, cành non, lá bị xoắn rộp lên, rệp tiết nước nhờn khiến lá bị muội đen.
– Đặc điểm gây hại:
+ Rệp cam: Chủ yếu gây hại trên các cành non, lá non. Lá bị xoăn, rộp lên. Rệp tiết ra chất nhờn (gọi là sương mật) hấp dẫn kiến và nấm muội đen.
+ Rệp sáp (Planococcus citri): Trên mình phủ 1 lớp bông hoặc sáp màu trắng, hình gậy, hình vảy ốc, có thể màu hồng hoặc màu xám nâu. Những vườn cam hoặc cây cam ở gần ruộng mía thường hay bị từ mía lan sang.
– Phòng trừ: Dùng Sherpa 25EC hoặc Trebon pha với nồng độ 0,1 – 0,2% phun 1 – 2 lần ở thời kì lá non. Khi xuất hiện rệp, muốn trị có hiệu quả cần pha thêm vào thuốc 1 ít xà phòng để có tác dụng phá lớp sáp phủ trên người rệp làm cho thuốc dễ thấm.
* Bệnh hại bưởi
- Bệnh loét (Xanthomonas campestris)
Đặc điểm gây hại: Bệnh gây hại ở thời kì vườn ươm và cây mới trồng 1 – 3 năm, ở thời kỳ cây cho thu hoạch bệnh gây hại cả trên lá bánh tẻ, cành, quả non. Trên lá thấy xuất hiện các vết bệnh không định hình, mới mầu xanh vàng, sau chuyển thành màu nâu xung quanh có quầng vàng. Gặp điều kiện ẩm ướt gây thối rụng lá, gặp điều kiện khô gây khô giòn vết bệnh làm giảm quang hợp. Gây hại nặng trong điều kiện nóng, ẩm (vụ xuân hè).
- Bệnh sẹo (Ensinoe fawcetti Bit. et Jenk)
Triệu chứng gây hại: Vết bệnh thường có mầu nâu nhạt nhô lên khỏi bề mặt lá. Có thể lốm đốm hoặc dày đặc trên mặt lá, hình tròn, bề mặt vết bệnh sần sùi, gồ ghề. Nếu bệnh xuất hiện trên cành sẽ nhìn thấy các đám sần sùi giống như ghẻ lở, màu vàng hoặc nâu. Cành bị nhiều vết bệnh sẽ khô và chết. Bệnh đặc biệt gây hại nặng trong điều kiện nống và ẩm ( vụ xuân hè).
– Phòng trừ:
+ Cắt bỏ lá bệnh, thu gom đem tiêu huỷ
+ Phun thuốc: Boocđo 1 – 2% hoặc thuốc Kasuran 0,2%.
– Cách pha thuốc boocđô (pha cho 1bình 10 lít):
+ Dùng 0,1 kg Sunfat đồng + 0,2 kg vôi đã tôi (nồng độ 1/100), nếu nồng độ 2% thì lượng sunfat đồng và vôi tăng gấp đôi.
+ Lấy 7 lít nước pha với đồng sunfat, 3 lít còn lại pha với vôi, lọc bỏ cặn bã, sau đó lấy dung dịch đồng loãng đổ vào nước vôi đặc vừa đổ vừa quấy cho tan đều sẽ được dung dịch boocđô.
- Bệnh chảy gôm (Phytophthora citriphora):
– Đặc điểm gây hại:
Bệnh thường phát sinh ở phần sát gốc cây cách mặt đất khoảng 20 – 30 cm trở xuống cổ rễ và rễ.
Giai đoạn đầu bệnh mới phát sinh thường vỏ cây bị những vết nứt và chảy nhựa (gôm). Bóc lớp vỏ ra, ở phần gỗ bị hại có màu xám và nhìn thấy những mạch sợi đen hoặc nâu chạy dọc theo thớ gỗ.
Bệnh nặng lớp vỏ bị hại thối rữa (giống như bị dội nước sôi) và tuột khỏi thân cây, phần gỗ bên trong có màu đen xám. Nếu tất cả xung quanh phần cổ rễ bị hại, cây có thể bị chết ngay, còn bị một phần thì cây bị vàng úa, sinh trưởng kém, bới sâu xuống đất có thể thấy nhiều rẽ cũng bị thối.
– Phòng trừ:
Đẽo sạch lớp vỏ và phần gỗ bị bệnh, dùng Boocđô 2% phun trên cây và quét trực tiếp vào chỗ bị hại, nếu bệnh đã lan xuống rễ phải đào chặt bỏ những rễ bị bệnh rồi xử lý bằng boocđô.
Có thể dùng các loại thuốc khác như Aliette 80NP, Benlat C nồng độ 0,2 – 0,3% để phun và xử lý vết bệnh.
- Bệnh Greening:
– Đặc điểm gây hại: Cây có múi nói chung và bưởi nói riêng có thể nhiễm bệnh Greening vào bất kỳ giai đoạn nào từ thời kỳ vườn ươm tới khi cây 10 năm tuổi. Tuy nhiên, bưởi ít nhiễm bệnh Greening hơn các giống cam quýt khác. Triệu chứng cho thấy: trước khi những lá non trở thành mầu xanh thì trở nên vàng, cứng lại và mất mầu. Mô giữa các gân lá chuyển xanh vàng hoặc hơi vàng và có đường vân. Đầu tiên các đọt và lá non bị bệnh sâu đó có thể biểu hiện trên cả tán. Cùng thời gian đó lá xanh và lá già chuyển xang mầu vàng từ sống lá và gân lá. Các lá bị nhiễm bệnh có thể bị rụng sớm, trong một vài tháng hoặc và năm tất cả các cành cây bị khô đi và tàn lụi.
– Phòng trừ:
+ Sử dụng cây giống sạch bệnh
+ Trồng sen ổi để xua đuổi rày chổng cánh.
+ Phun thuốc phòng trừ môi giới truyền bệnh (Rầy chổng cánh)
+ Cắt bỏ tất cả các cành bị bệnh đem đốt
+ Bón phân cân đối tăng sức đề kháng và chống chịu của cây
- Các bệnh do virus và viroid:Trên bưởi còn 2 loại bệnh khá nguy hiểm gây hại: bệnh vàng lá (do virus Tristeza gây hạ) và bệnh Exocortis (do viroids gây hại). Các bệnh này không chữa trị được bằng các loại thuốc hoá học như trên mà phải phòng trị bằng các biện pháp kỹ thuật tổng hợp, bắt đầu từ khâu nhân giống sạch bệnh tới các kỹ thuật canh tác, vệ sinh đồng ruộng, diệt trừ môi giới truyền bệnh vv…