Cây rau xà lách

CÂY XÀ LÁCH (Lactura sativa car capitala L.)

  1. Nguồn gốc, đặc tính sinh học và giá trị dinh dưỡng

1.1. Nguồn gốc và giá trị dinh dưỡng

Xà lách có nguồn gốc từ Trung á, nó được dùng làm rau ăn và làm thuốc từ năm 4500 trước công nguyên. Nó là rau phổ biến ở Hylạp và Italia. ở các nước Tây Âu xà lách cuốn mới được biết và sử dụng vào thế kỷ XIV, nhưng loại xã lách xoăn thì được dùng từ rất lâu. Ngày nay xà lách là loại rau ăn sống quan trọng của hầu hết các nước trên thế giới.

Trong y học cổ truyền xà lách có vị đắng, tính lạnh, bổ gân cốt, có tác dụng chữa bệnh gan, chứng mất ngủ… ngày nay người ta biết trong thân lá của xà lách có các thành phần như lactucarium có tác dụng có thể so sánh với thuốc phiện, lactucerin, lactucin, acid lactucic, asparagin, hioscyamin, chlorophin, vitamin A, C, D, E, các khoáng chất Fe, Ca, P, I, Mn, Zn, Cu, Na, Cl, K, Co, As, các phosphas, sulffat, sterol, caroten…

Người ta đã tìm thấy trong xà lách có một đơn vị vitamin E/50g và 17,7mg vitamin C/100g cây tươi. Để trong 3 ngày lượng vitamin C giảm xuống 4mg nếu ta không giữ dễ cây cẩn thận trong nước.

Từ thành phần phong phú trên, người ta đã xác định được các tính chất của xà lách là giải nhiệt, lọc máu, khai vị (vào đầu bữa ăn, nó kích thích các tuyến tiêu hóa), cung cấp các chất khoáng, giảm đau, gây ngủ, trị ho, trị đái đường, lợi sữa, dẫn mật, chống thối.

Xà lách được chỉ định dùng làm thuốc trong các trường hợp thần kinh dễ kích thích, suy nhược tâm thần, đánh trống ngực, co giật nội tạng, chứng đau dạ dày, di mộng tinh, kích thích sinh lý, mất ngủ, mất khoáng chất, ho, ho gà, ho thần kinh, suyễn, đái đường, thống phong, tạng khớp, bệnh sỏi, viêm thận, hành kinh đau bụng, vàng da, sung huyết gan, táo bón.

Người ta có thể dùng xà lách với liều điều trị là # thìa cafê dịch, ngày thứ hai 1 thìa, ngày thứ ba 1 thìa #, cho đến ngày thứ 10 uống 5 thìa rồi giảm dần trở lại # thìa. Hoặc dùng Lactucarium tức là dịch khô của cây. Nó có hiệu quả đối với bệnh thấp khớp, thống phong, ho, hen và các rối loạn thần kinh.

Để dùng ngoài, có thể sắc nước dùng rửa trị bệnh nấm hoặc lấy lá nấu lên dẫn dầu dừa dùng đắp trị mụn nhọt, apxe, bỏng. Dùng đắp liên tiếp vào ngực và vào lưng để trị ho.

Cần chú ý là chất Lactucarium không có hại như thuốc phiện vì nó làm dịu sự kích thich thần kinh. Nó không gây nên táo bón và làm mất cảm giác ăn ngon miệng và không có tác dụng tổn thương đến các bộ máy tuần hoàn và tiêu hóa.

Tùy giống mà lá có thể khác nhau, cuốn (xà lách) hay không cuốn (rau diếp). Thân thuộc loại thân thảo và có một loại dịch trắng như sữa có thể dùng làm thuốc trong y học. Có bộ rễ rất phát triển và phát triển rất nhanh.

1.2. Yêu cầu ngoại cảnh

– Nhiệt độ: xà lách phát triển tốt ở 8- 25oC, còn rau diếp từ 10- 27oC. Nhiệt độ thích hợp cho toàn bộ quá trình sinh trưởng từ 15- 20oC.

– ánh sáng: ánh sáng ngày từ 10- 12 giờ rất thuận lợi để đạt năng suất cao.

– Nước: Độ ẩm thích hợp của đất từ 70- 80%.

– Đất và chất dinh dưỡng: Xà lách không kén đất, chỉ yêu cầu thoát nước; pH 5,8- 6,6. Sau khi trồng 28- 40 ngày đã được thu hoạch, do đó cần các loại phân dễ tiêu.

  1. Biện pháp kỹ thuật

2.1. Các giống xà lách và rau diếp trồng ở nước ta:

– Rau diếp:

+ Rau diếp xoăn (rau diếp ngô) mép lá xoăn ăn giòn

+ Rau diếp ta (có loại lá vàng và loại lá xanh).

– Xà lách:

+ Xà lách trứng: Lá trắng, chịu được mưa nắng, cuộn chắc.

+ Xà lách li ti: Lá xanh nhạt, tán lớn, ít cuộn xốp, chịu úng.

2.2. Thời vụ:

– Xà lách trứng: Gieo từ tháng 7 đến tháng 2.

– Xà lách li ti: Gieo từ tháng 3- 4 để ăn trong vụ hè.

– Rau diếp xoăn: Gieo tháng 8 đến tháng 3.

– Rau diếp ta: Gieo như trên, nhưng cũng có thể gieo gieo chậm hơn cũng được. Một hecta cần 350g- 450g hạt (13- 16g/1 sào). Tuổi cây giống 25- 30 ngày.

2.3. Làm đất, bón phân:

Đất yêu cầu làm nhỏ, tơi, kỹ, luống cao 7- 10cm. Chủ yếu là bón lót bằng phân chuồng hoai mục, nếu không có phân chuồng hoai mục có thể sử dụng phân hữu cơ sinh học với lượng dùng 800-1000 kg/ha tùy vào từng loại đất.

Lượng phân cần bón cho 1 ha như sau:

Loại phânTổng lượng phân bón (kg /ha)Bón lót (%)Bón thúc (%)
Phân chuồng hoai mục7.000-10.000100
N7-10100
K2O20 – 254060

Chỉ bón đạm khi thấy cây có hiện tượng đói đạm và kết thúc bón phân trước khi thu hoạch 10-15 ngày.

Bón phân kết hợp với xới xáo, làm cỏ

2.4. Trồng cây

Cây cách cây cách nhau 15- 18cm, đảm bảo mật độ 200.000- 300.000 cây/ha

2.5. Chăm sóc

– Tưới nước: Trồng xong tưới ngay, mỗi này một lần, sau chỉ tưới giữ ẩm, 2- 3 hôm mới tưới.

2.6. Thu hoạch:

Trồng được 30- 40 ngày thì thu hoạch. Năng suất xà lách của nước ta hiện nay từ 30- 45tạ/ha.

Một số loài rau bản địa

Rau bản địa là rau tự nhiên, không được trồng trọt nhưng vẫn được sử dụng. Chúng có đặc tính chống chịu bệnh tốt hơn, dễ thích nghi với điều kiện môi trường, những rau bản địa nhiệt đới có thể sử dụng một phần để làm hàng hóa cung cấp dinh dưỡng với giá thành thấp hơn và có thể trồng được trong điều kiện trái vụ.

Hầu hết các loại rau bản địa đều có nguồn gốc từ các địa phương, trong những điều kiện thích hợp chúng có thể sinh trưởng ở các điều kiện khác nhau. Sản xuất loại rau này cần ít đất, ít tốn công và đầu tư ít. Trong những năm gần đây, nhu cầu rau bản địa ngày càng tăng đặc biệt là những vùng du lịch và các nhà hàng. Giá bán của các loại rau này rất cao, rau bản địa có thể đem lại thu nhập cao cho nông dân.

Tuy nhiên, sản xuất rau bản địa vẫn ở quy mô nhỏ với năng suất thấp và số lượng không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng. Để mở rộng sản xuất rau bản địa, cần phải chú ý đầu tư bao gồm sản xuất hạt giống, kỹ thuật và trợ giúp, tư vấn đăng ký nhãn mác, thương hiệu và thị trường.

– Diếp cá (Houttuynia cordata) là loại thực vật thân thảo, mọc tự nhiên, thân dài 20-80 cm. Phần thân mọc đứng trên mặt dất cao. Lá đơn mọc cách, có cuống dài, phiến lá hình tim dài 4-9 cm rộng 3-8 cm. Hoa nhỏ màu vàng nhạt, tập hợp thành bông dài 2,5 cm. Quả nang nhiều hạt.

Cây diếp cá mọc hoang trên các bãi ven suối, bờ ruộng, nơi đất ẩm, nhiều ánh sáng. Cây có thể lan nhanh trong vườn nhà và rất khó diệt sạch.

Toàn cây có mùi tanh của cá, do vậy nó không được nhiều người ưa thích như rau húng, bạc hà hoặc những rau gia vị khác. Rau diếp cá cũng được sử dụng như một loại thuốc. ở Trung Quốc, rễ được sử dụng như rau ăn rễ.

– Hoa thiên lý (Telosma cordata) thuộc họ Asclepiadaceae. Thuộc dạng cây leo giàn, hoa thơm ngát. Cây ưa sáng, hoa nở vào mùa xuân hè và mùa thu. Nó có thể trồng ở sân hay vườn. Hoa màu vàng đính ngay trên thân. Những hoa đơn lẻ nở kế tiếp nhau trong khoảng 1 tuần có mùi thơm ngát cả ngày và đêm. Cây sinh trưởng mạnh trong suốt những ngày ấm áp, thời gian chiếu sáng dài của mùa hè và sinh trưởng chậm dần khi nhiệt độ thấp và ngừng sinh trưởng trong điều kiện mùa đông. ở miền Nam Việt Nam, cây thiên lý có thể ra hoa sau trồng 4-5 tháng và ra hoa trong suốt 8 tháng/năm. Hoa thiên lý ăn rất ngon, giàu cacbohydrrate, protein, vitamin A và vitamin C. Cây thiên lý vừa là cây cảnh leo giàn có hoa thơm, hoa thiên lý còn là thức ăn bổ dưỡng. Nó còn được dùng làm thuốc bổ cho gan, cai nghiện, lợi tiểu…Cây thiên lý dễ trồng, cho thu nhập cao, cần tăng diện tích trồng ở miền Bắc và miền Nam Việt Nam.

– Cây rau sắng (Melientha suavis pierre) là cây hoang dại, sinh trưởng ở vùng núi cao ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Cây mọc thành bụi, thân gỗ nhỏ cao 4-8 m. Vì sinh trưởng chậm, cây rau sắng được xem là cây rau bản địa có giá trị kinh tế cao. Rau sắng có thể bán với giá 150 – 300 đồng/kg. Rau sắng có thể thu hoạch vào tháng 3 tháng 4. Lá có thể dùng để nấu canh rất ngon và rất bổ dưỡng. Rau sắng có hàm lượng protein là 5,5% và hàm lượng carbonhydrate 5,3%. Nhu cầu rau sắng của thị trường đang rất cao đang rất cần phải đáp ứng.

– Cây bồ khai (Erythropalum scandens Blume) thuộc họ Olacaceae. Nó có ở những vùng đất phù sa và trên núi với độ cao 100 – 1.500 m so với mặt nước biển, hầu hết ở những vùng núi Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc như cao. Bò khai cao 5-10 m, cây nhẵn nhụi không có lông, lá không bị rụng, có tua cuốn ở nách lá. Cuống lá dài 3-10 cm., lá hình ovan dài, o van tròn hoặc o van tam giác. Cụm hoa rộng 6-18 cm, có rất nhiều hoa. Thành phần dinh dưỡng cao với 6 g% protein, 6,1 g% hydratcarbon, 7,5 g% chất xơ, 138 mg% Ca, 40,7 mg% P, 2,6 mg% Caroten, 60 mg% vitamin C. Nó có thể cho thu hoạch từ tháng 3 đến tháng 9 hàng năm. Ngọn và lá non có thể dùng để nấu canh hoặc xào với thịt bò, thịt gà. Nó là món ăn ngon miệng. Nó có thể được sử dụng như một vị thuốc để chữa bệnh thận, tăng cường sức khỏe và đặc biệt là rễ của nó chữa được bệnh chuột rút.

 

 

404 Not Found

404

Not Found

The resource requested could not be found on this server!


Proudly powered by LiteSpeed Web Server

Please be advised that LiteSpeed Technologies Inc. is not a web hosting company and, as such, has no control over content found on this site.